Báo cáo vừa được Ủy ban Kinh tế Quốc hội công bố cho
thấy tỷ lệ thuế - phí trên GDP ở Việt Nam cao gấp 1,4 - 3 lần so với các
nước trong khu vực.
> Mỗi lít xăng 'cõng' 6.500 đồng thuế, phí
> Đề xuất chỉ đánh thuế cá nhân có thu nhập trên 9 triệu đồng
Ủy ban Kinh tế Quốc hội ngày 4/9 công bố Báo cáo kinh
tế vĩ mô 2012 dài hơn 300 trang với tựa đề "Từ bất ổn vĩ mô đến con
đường tái cơ cấu". Đây là lần đầu tiên, Ủy ban Kinh tế Quốc hội xuất bản
một ấn phẩm quy mô như vậy nhằm cung cấp một bức tranh chi tiết về sức
khỏe nền kinh tế Việt Nam.
Theo báo cáo, kinh
tế đất nước đang trải qua những năm tháng khó khăn nhất kể từ khi bắt
đầu đổi mới vào những năm đầu thập niên 1990. Tăng trưởng kinh tế liên
tục suy giảm, từ mức trên 8,2% trong giai đoạn 2004-2007, xuống còn xấp
xỉ 6% trong giai đoạn 2008-2011. Trong khi đó, tỷ lệ lạm phát liên tục ở
mức cao, thâm hụt thương mại trầm trọng, đặc biệt thâm hụt ngân sách
cao và nợ công tăng nhanh. Thâm
hụt ngân sách trong những năm gần đây lên tới xấp xỉ 5-6% GDP, nợ công
và nợ công nước ngoài lần lượt tăng nhanh lên mức 57% và 42% GDP vào
cuối năm 2010.
Trong khi nhu cầu chi tiếp tục gia tăng thì nguồn thu
ngân sách có nhiều dấu hiệu bất ổn, và quá lệ thuộc vào thuế, phí. Báo
cáo của Ủy ban chỉ ra rằng, tỷ lệ thuế và phí ở Việt Nam vào hàng cao
nhất khu vực vậy mà nguồn thu đang có dấu hiệu kém bền vững này lại được
sử dụng chưa hợp lý.
Nước | Thuế phí / GDP |
Ấn Độ | 7,8% |
Indonesia | 12,1% |
Malaysia | 15,5% |
Philippines | 13% |
Thái Lan | 15,5% |
Trung Quốc | 17,3% |
Việt Nam | 21,6% |
Dựa trên các số liệu từ Bộ Tài chính, nhóm nghiên cứu
của Ủy ban Kinh tế nhận thấy thu ngân sách của Việt Nam giai đoạn 2007 -
2011 khá ổn định, khoảng 29% GDP. Trong đó thu từ thuế - phí là 26,3%,
trong đó thu từ dầu thô đang có xu hướng giảm. Nếu loại trừ nguồn này,
tỷ lệ thuế - phí so với GDP là 21,6%.
“Mức này rất cao so các nước khác trong khu vực”, báo
cáo nhận định. Cùng với những thiệt thòi do lạm phát, Ủy ban Kinh tế cho
rằng người Việt đang phải gánh chịu tỷ lệ thuế phí cao từ 1,4 đến 3 lần
so với những nước láng giềng.
Xét riêng về thuế thu nhập, các chuyên gia nhận thấy,
Việt Nam có các thang bậc thuế suất khá tương đồng so với các nước trong
khu vực, song khoảng thu nhập chịu các thang thuế suất tương ứng lại
thấp, nên tính chung số thuế phải nộp là khá cao so với khu vực. Ví dụ
mức thu nhập phải chịu thuế 10% tại Việt Nam khoảng 3.450 - 5.175 USD
một năm, thì ở Thái Lan là 4.900 - 16.400 USD, Trung Quốc là 3.800 -
9.500 USD một năm. Tương tự với thuế thu nhập doanh nghiệp hiện được thu
ở mức 25% đối với mọi doanh nghiệp, trong khi tại các nước, thuế suất
dao động 2 - 30%. Đó là chưa kể đến các khoản thuế cao đánh vào tiêu
dùng thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu) cũng như các khoản chi phí
không chính thức khác.
Theo báo cáo, do thuế phí cao, khả năng tích lũy, đầu
tư phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực tư nhân đã bị
hạn chế đáng kể. Nó cũng khuyến khích các hành vi gian lận về thuế như
chuyển giá tại các doanh nghiệp FDI. Theo đó khu vực này chiếm khoảng
20% GDP nhưng chỉ đóng góp trên dưới 10% thu ngân sách.
Một hệ quả khác là nguồn thu ngân sách ngày càng trở nên kém bền vững.
Việt Nam hiện có 3 nguồn thu chính vào ngân sách là thuế giá trị gia
tăng, thu nhập doanh nghiệp và thuế xuất nhập khẩu - tiêu thụ đặc biệt.
Do kinh tế khó khăn, nguồn thu từ thu nhập doanh nghiệp đang có xu hướng
giảm từ 36% (2006 - 2008) xuống còn 28% trong giai đoạn 2009 - 2011,
làm gia tăng sự phụ thuộc vào 2 nguồn còn lại (tăng từ 10% năm 2006 lên
14,5% năm 2010). Điều này hoàn toàn không có lợi khi Việt Nam đang phải
gỡ bỏ dần các hàng rào thuế quan nêu trên trong những năm tới theo cam
kết WTO.
Một nguồn thu khác cũng được báo cáo đề cập là từ bán
nhà thuộc sở hữu nhà nước và chuyển quyền sử dụng đất. “Tuy nhiên, về
bản chất, việc làm này cũng giống như việc một cá nhân bán tài sản đi để
chi tiêu. Khoản vay nợ của anh ta có thể giảm nhưng tài sản của anh ta
cũng giảm tương ứng, tức là anh ta đã nghèo đi”, nhóm nghiên cứu so
sánh.
Gánh nặng thuế phí của người Việt ngày một lớn. Ảnh: Zuma |
Đứng trước thực tế này, báo cáo của Ủy ban Kinh tế cho
rằng nguyên nhân chính gây áp lực lên ngân sách chính là do áp lực chi
tiêu công quá lớn trong thời gian dài. Quy mô chi tiêu tối ưu được các
chuyên gia khuyến cáo đối với các nền kinh tế đang phát triển nằm trong
khoảng 15-20% GDP. Số liệu so sánh quốc tế của Ngân hàng Phát triển châu
Á (ADB), Hong Kong, Đài Loan (Trung Quốc), Indonesia, Singapore và Ấn
Độ đều có mức chi tiêu trong khoảng 15-18% GDP. Trong khi đó, từ nhiều
năm qua, chi tiêu của Việt Nam đang nằm ở phía trên rất xa ngưỡng tối ưu
này, ở mức hơn 30% GDP. Con số này thậm chí còn cao hơn cả giai đoạn
cuối thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa (22% vào năm 1990).
Lo ngại hơn, các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, trong
tổng chi tiêu hiện tại, chi thường xuyên chiếm tỷ trọng rất lớn, trong
khi đầu tư phát triển lại có xu hướng giảm (từ 36,8% năm 2003 xuống còn
24,6% trong năm 2011). “Điều này phần nào cho thấy sự cồng kềnh và chi
tiêu tốn kém của bộ máy công quyền”, báo cáo nhận định.
Về giải pháp, các chuyên gia của Ủy ban Kinh tế đề
xuất đặt mục tiêu chính của cải cách tài khóa là điều chỉnh chi tiêu
công, hệ thống thuế nhằm hướng tới một ngân sách cân bằng và ổn định. Để
làm được điều này, trước tiên, hạch toán ngân sách phải được thực hiện
minh bạch theo chuẩn quốc tế. Các khoản chi để ngoại bảng phải được
tuyệt đối tránh, loại các khoản thu kém bền vững và thu từ bán tài sản
khỏi thước đo thâm hụt. Ngoài ra, các gánh nặng ngân sách phát sinh
trong tương lai, ví dụ như chi trả lương hưu hay bảo hiểm y tế, cũng cần
được đưa vào các dự báo về thâm hụt nhằm có được bức tranh chính xác
hơn về triển vọng tài khóa tương lai.
Bên cạnh đó, báo cáo cũng khuyến cáo cơ quan quản lý
sớm giảm được chi tiêu công và thu hẹp vai trò của Nhà nước. Việc cắt
giảm phải dựa trên việc đánh giá sàng lọc, có thứ tự ưu tiên… Đối với
doanh nghiệp Nhà nước - vốn tiêu tốn nhiều chi phí, cũng cần có sự tách
bạch giữa mục đích công ích thuần túy với những đơn vị kinh doanh có lợi
nhuận.
Cuối cùng, hệ thống thuế cần được cải cách đảm bảo các
tiêu chí tạo nguồn thu bền vững, hiệu quả, công bằng và minh bạch. Gánh
nặng thuế cần phải được điều chỉnh giảm một cách hợp lý. Tuy nhiên, mức
độ hợp lý này phụ thuộc rất nhiều vào quá trình cắt giảm chi tiêu công.
Gánh nặng thuế quá cao sẽ khiến cho hệ thống thuế kém hiệu quả do nó
khuyến khích việc trốn thuế và bóp méo sự phân bổ nguồn lực. Hệ thống
sắc thuế và phí cần được rà soát tránh sự chồng lấn lên nhau. Các sắc
thuế cần được điều chỉnh nhằm đảm bảo an sinh xã hội cho người thu nhập
thấp, khuyến khích tiết kiệm, và hạn chế tiêu dùng, đặc biệt là hàng
tiêu dùng xa xỉ nhập khẩu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét